Ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp Việt Nam

Công nghệ sinh học vinabiomi

rong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế, việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp trở thành một nhiệm vụ cấp bách đối với nông nghiệp Việt Nam. Công nghệ sinh học, với những bước tiến vượt bậc, đã và đang mở ra những cơ hội mới cho ngành nông nghiệp nước ta. Từ việc chọn lọc và nhân giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chống chịu tốt với sâu bệnh, đến việc sản xuất các chế phẩm sinh học thân thiện với môi trường, công nghệ sinh học đang đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển bền vững. Bài viết này sẽ khám phá những ứng dụng cụ thể của công nghệ sinh học trong nông nghiệp Việt Nam, phân tích những thành tựu đã đạt được và tiềm năng phát triển trong tương lai.

Công nghệ sinh học vinanoni trong nông nghiệp

Việt Nam là quốc gia đang phát triển hướng đến mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tuy nhiên, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhằm đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu. Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng chất lượng cao và bền vững, ứng dụng công nghệ sinh học được coi là công cụ quan trọng giúp nâng cao năng suất và những đặc tính tốt của các sản phẩm lương thực có nguồn gốc từ động vật và thực vật.

Công nghệ sinh học (Biotechnology) là lĩnh vực đa ngành và liên ngành, gắn kết với nhiều lĩnh vực trong sản xuất và cuộc sống như: chọn tạo giống cây trồng vật nuôi mang các đặc tính mới (trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy hải sản); chế biến và bảo quản thực phẩm; sản xuất các chế phẩm sinh học sử dụng trong nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật; ứng dụng trong y học và dược phẩm, chẩn đoán bệnh; xử lý ô nhiễm môi trường, rác thải…

Công nghệ sinh học là lĩnh vực phát triển mạnh do các hoạt động nghiên cứu và phát triển ngày càng tăng. Công nghệ sinh học giúp:

  • Giảm thiểu sử dụng nhiên liệu hóa thạch và khí thải,
  • Cung cấp các loại cây nông nghiệp mới, cải tiến và giúp tăng cường an ninh lương thực cho dân số toàn cầu đang tăng lên.
  • Công nghệ sinh học đã trở thành trung tâm phát triển của khoa học và công nghệ và chính trị. Chính vị vậy, các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước có nền khoa học phát triển đều đang tiếp tục đầu tư và phát triển công nghệ sinh học trong nhiều lĩnh vực khác nhau hơn nữa.

Từ đầu những năm 90: công nghệ sinh học được xem là 1 trong 4 hướng công nghệ cần ưu tiên phát triển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở đó, các đề án, chương trình về công nghệ sinh học cấp quốc gia và ở nhiều bộ, ngành, địa phương trong lĩnh vực nông nghiệp đã, đang được xây dựng và triển khai thực hiện tập trung vào mục tiêu: Tạo ra các giống mới có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; tạo ra các công nghệ sản xuất các chế phẩm chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi; các công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm nông nghiệp nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.

Những năm 2000: Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 50 CT/TW về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nắm bắt được nhu cầu thực tế trong nước cũng như xu hướng phát triển, ứng dụng công nghệ sinh học trong các lĩnh vực tại các nước trong khu vực và thế giới.

Ngoài ra lần đầu tiên phương pháp cấy mô đã được các cơ sở, hộ gia đình và các nhà chọn giống ở Việt Nam được áp dụng. Với kỹ thuật trong nuôi cấy mô, các nhà nghiên cứu có thể sản xuất giống trong phòng thí nghiệm để đưa ra sản xuất nhanh chóng hơn nhiều lần phương pháp truyền thống.

Thành tựu điển hình chứng minh hiệu quả tăng năng suất khi ứng dụng công nghệ sinh học cho thấy, trong 1 năm, nhờ ứng dụng công nghệ sinh học tiên tiến có thể sản xuất 130 nghìn cây hồng, trong khi với phương pháp dâm cành truyền thống, người nông dân chỉ có thể được tối đa 50 cây.

Từ 2010 đến nay: Các quy định có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển công nghệ sinh học tại Việt Nam đến năm 2030 phải kể đến như: Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp sinh học đến năm 2030.

Các văn bản này đã chỉ ra định hướng phát triển tổng thể công nghệ sinh học thông qua việc tập trung nguồn lực đầu tư phát triển công nghiệp sinh học, đổi mới cơ chế chính sách, tranh thủ hợp tác và hỗ trợ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư và sản xuất sản phẩm từ công nghệ sinh học trong các ngành, lĩnh vực và trở thành một ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ an sinh xã hội, bảo vệ môi trường bền vững, đảm bảo an ninh quốc phòng.

Lần đầu, dựa trên công nghệ RNAi, Viện Công nghệ sinh học đã phát triển được các dòng bông chuyển gen kháng virix xanh lùn; quy trình sản xuất chế phẩm BCF từ các chủng vi sinh vật phân lập từ đất…

Công nghệ sinh học grabycare – Cây trồng:

Trên các cánh đồng Việt Nam, hàng loạt giống lúa mới ngắn ngày có năng suất cao được tạo ra nhờ công nghệ sinh học đã được đưa vào sản xuất. Kỹ thuật cấy mô của các chuyên gia sinh học Việt Nam cũng đạt được kết quả tốt trong việc nhân giống khoai tây, giống hoa và một số cây trồng khác. Một số giống lúa của Việt Nam được tạo ra bằng công nghệ sinh học như DR1, DR2 có những đặc tính tốt như: Khả năng chịu rét, đẻ nhánh khỏe và tập trung, cây thấp, ngắn ngày, năng suất cao (8-9 tấn/ha). Các loại cây trồng biến đổi gen nhờ công nghệ sinh học đã, đang trở thành loại cây trồng được đưa vào ứng dụng nhanh nhất trong lịch sử.

Công nghệ sinh học utiminkapa – Chăn nuôi:

Từ việc thực hiện lai kinh tế, đến nay với phương pháp truyền giống nhân tạo, các nhà nghiên cứu đã cải tạo giống, thực hiện nạc hóa đàn lợn và sinh hóa đàn bò. Ứng dụng Công nghệ sinh học để sản xuất tinh, phôi tươi và đông lạnh ở quy mô xí nghiệp nhỏ tự động hóa đã góp phần tăng nhanh số lượng đàn bò sữa trên cả nước, đồng thời tăng năng suất sữa. Việt Nam đã có hàng loạt gia súc thích hợp với khí hậu và điều kiện chăn nuôi trong nước. Tại một số địa phương, việc sử dụng tinh nhân tại cho thấy khả năng giúp bò trưởng thành tăng từ 180kg/con lên từ 250-300 kg/con với tỷ lệ xẻ thịt tăng 1,5 lần.

Công nghệ sinh học cacatomcua – Thuỷ sản:

Bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi, việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng thủy chế tại nhiều địa phương đã đạt được nhiều thành công. Việc sử dụng các sản phẩm sinh học để điều hòa và kiểm soát hệ vi sinh vật trong ao, cạnh tranh và chiễm chỗ các vi sinh vật gây bệnh, gia tăng sự phân hủy các hợp chất hữu cơ, giúp cải thiện môi trường sinh thái, củng cố hệ miễn dịch của thủy sản nuôi.

Ngoài ra, biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) đang được triển khai khắp cả nước những năm qua, thể hiện hiệu quả lớn trong “cuộc chiến” giảm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, giảm ô nhiễm môi trường và là biện pháp tích cực hướng đến nền nông nghiệp sạch và bền vững.

Có thể nói, những thành tựu ban đầu đạt được trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp, thủy sản, y tế, môi trường nói chung và nông nghiệp nói riêng đã khẳng định vai trò quan trọng của nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học. Nông nghiệp Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể khi áp dụng những thành tựu công nghệ sinh học vào các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi.

Qua đó giúp nâng cao năng suất cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị, tiết kiệm chi phí cho người nông dân, góp phần đem lại sự ổn định và bền vững của ngành nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế.

Midoli Biotek là công ty cung cấp các giải pháp công nghệ sinh học cho nông nghiệp, thủy sản theo hướng an toàn và hữu cơ bền vững với các chủng vi sinh có lợi cho cây trồng từ qui mô trong điều kiện sinh thái tại Việt Nam.

Nhân thấy thị trường phân bón sinh học trên thế giới rất tiềm năng, ước tính trị giá 2,3 tỷ USD vào năm 2020 và dự kiến đạt 3,9 tỷ USD vào năm 2025, thị trường thuốc trừ sâu sinh học ước tính đạt 4.3 tỷ USD vào năm 2020 và dự kiến đạt 8,5 tỷ USD vào năm 2025.

Công ty TNHH MIDOLI đã mạnh dạn đề xuất và vinh dự nhận được tài trợ kinh phí nghiên cứu ứng dụng từ Quỹ đổi mới sáng tạo VINGROUP- VINIF cho dự án “AGRIBIOSOL – Giải pháp công nghệ sinh học nông nghiệp theo hướng an toàn, hữu cơ và bền vững”

Dự án bao gồm 2 giải pháp và kèm theo hai bộ sản phẩm sinh học. Thành công của dự án giúp hoàn thiện 12 sản phẩm, thông qua việc thử nghiệm sẽ hoàn thành một số qui trình sử dụng hiệu quả cho việc chuyển đổi, canh tác hữu cơ và nuôi tôm, nuôi trồng thủy sản không sử dụng kháng sinh:

  1. MICROSOL – Giải pháp công nghệ vi sinh thay thế kháng sinh trong nuôi tôm. Đây là giải pháp thay thế 100% kháng sinh đã được kiểm chứng mà vẫn giúp tôm về đích ngay cả trong khu dịch bệnh. Giải pháp cung cấp bộ sản phẩm vi sinh kiểm soát vi khuẩn gây bệnh hữu hiệu, đặc biệt là Vibrio parahaemolyticus mang gen độc tố gây bệnh hoại tử gạn tụy cấp tính
  2. AGRIBIS – Giải pháp Công nghệ sinh học chuyển đổi canh tác nông nghiệp theo hướng hữu cơ, an toàn, bền vững. Giải pháp cung cấp bộ sản phẩm vi sinh và thảo dược giúp kiểm soát hữu hiệu sâu, rầy, rệp, vi khuẩn, vi nấm, tuyến trùng hại rễ, nhện đỏ,… và kích thích tăng trưởng cây trồng. Đồng thời, cung cấp các qui trình sử dụng từ đầu vụ, từ khi ủ compost, làm đất,… nhằm giảm thiểu đến thay thế 100% thuốc bảo vệ thực vật hóa học.

Qua casetudy này có thể nhìn nhận: Thời kỳ hội nhập và internet toàn cầu hoá như ngày nay, bất kỳ lĩnh vực nào, doanh nghiệp nào đều có thể vươn ra biển lớn để làm giàu và vươn ra thế giới. Tận dụng được thế mạnh công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp mang lại những kết quả kinh doanh đột phá bao gồm tất cả các lĩnh vực: Nông nghiệp, sản xuất, bất động sản…

sesoopen.com